Lịch sử Algérie

Bài này nằm trong loại bài về
Lịch sử Algérie
Chủ đề Algérie
Bài chi tiết: Lịch sử Algérie

Algérie từng là nơi sinh sống của người Berber (hay Imazighen) từ ít nhất năm 10.000 TCN. Từ năm 1000 TCN trở về sau, người Carthage bắt đầu tạo lập ảnh hưởng tại đây, thành lập nên những khu định cư dọc bờ biển. Các vương quốc Berber bắt đầu xuất hiện, nổi tiếng nhất là Numidia, lợi dụng cơ hội sau Các cuộc chiến tranh Punic để trở thành độc lập với Carthage nhưng ngay sau đó lại bị Cộng hòa La Mã chiếm năm 200 TCN. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, người Berber một lần nữa giành lại độc lập trong khi người Vandal chiếm nhiều vùng khác cho tới khi bị các vị tướng của Hoàng đế Byzantine, Justinian I trục xuất khỏi nơi này. Sau đó, Đế chế Byzantine tạm thời kiểm soát được vùng phía đông đất nước cho tới khi người Ả Rập xuất hiện vào thế kỷ thứ VIII.

Vòm La Mã của Trajan tại Thamugadi (Timgad), Algérie

Sau một số thập kỷ kháng chiến dữ dội dưới sự lãnh đạo của KusaylaKahina, người Berbers chấp nhận Hồi giáo en masse (theo số đông), nhưng hầu như ngay lập tức trục xuất umayyad Caliphate ra khỏi Algérie, thành lập nên một nhà nước Ibadi của những người Rustamid. Sau khi đã cải đạo Kutama của người Kabylie sang đạo của mình nhà Fatima Shia lật đổ Rustamids, và chinh phục Ai Cập. Họ để lại Algérie và Tunisia cho những kẻ chư hầu Zirid; sau này người Zirid nổi loạn và theo dòng Hồi giáo Sunni, họ đồng hóa với một bộ lạc Ả Rập đông dân, bộ lạc Banu Hilal, để làm yếu bộ lạc đó, nhưng điều đó bất ngờ lại dẫn tới quá trình Ả Rập hoá vùng nông thôn. AlmoravidAlmohad, các triều đại của người Berber từ phía tây do những người cải cách tôn giáo lập nên đã mang lại một giai đoạn khá ổn định và phát triển; tuy nhiên với sự sụp đổ của Almohads, Algérie trở thành một chiến trường cho ba quốc gia tiếp theo, Zayyanid của Algérie, Hafsid của Tunisia, và Marinid của Maroc. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu, Tây Ban Nha bắt đầu tấn công chiếm giữ nhiều thành phố ven biển, tìm cách lôi kéo sự hỗ trợ từ Đế chế Ottoman.

Algérie được gộp vào trong Đế chế Ottoman bởi Khair ad-Din và em trai ông là Aruj, người đã lập ra những biên giới hiện đại của Algérie ở phía bắc và biến bờ biển nước này thành cơ sở cho những tên cướp biển; cướp biển phát triển mạnh nhất tại trong những năm 1600. Việc cướp bóc các tàu buôn Hoa Kỳ trên Địa Trung Hải dẫn tới cuộc chiến Berber thứ nhấtthứ hai với Hoa Kỳ. Viện lý do coi thường Lãnh sự của mình, Pháp xâm chiếm Algiers năm 1830; tuy nhiên, nhiều cuộc kháng chiến do các cá nhân như Abdelkader ibn Muhieddine, Ahmed BeyFatma N'Soumer tiến hành khiến công cuộc chinh phục Algérie của Pháp diễn ra chậm chạp, về mặt kỹ thuật chỉ hoàn thành vào cuối những năm 1900 khi Tuareg cuối cùng bị chinh phục.

Constantine, Algérie 1840

Tuy nhiên, trong lúc ấy Pháp đã biến Algérie thành một phần lãnh thổ của mình, tình trạng này chỉ chấm dứt với sự sụp đổ của nền Đệ Tứ Cộng hoà. Hàng chục nghìn người định cư từ Pháp, Ý, Tây Ban NhaMalta đã tới sống tại các trang trại trên đồng bằng ven biển Algérie và chiếm đa số những vùng ưu thế tại các thành phố ở Algérie, lợi dụng việc sung công các đất do các cộng đồng sở hữu của Pháp, và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới để tăng diện tích đất canh tác. Hậu duệ của những người châu Âu tại Algérie (được gọi là "chân đen" - Pieds-Noirs), cũng như những người gốc Algérie theo Do Thái (thường có nguồn gốc Sephardic), trở thành các công dân Pháp thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX; trái lại, đa phần dân Hồi giáo Algérie (thậm chí cả những cựu chiến binh trong quân đội Pháp) không được nhận Pháp tịch cũng như quyền bầu cử. Kết cấu xã hội Algérie đã bị đẩy tới mức căng thẳng tột cùng trong giai đoạn này: tỷ lệ biết chữ giảm sút[17], trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn[18].

Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (có lúc gọi là Mặt trận giải phóng Dân tộc Algérie (FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algérie; sau gần một thập kỷ chiến đấu cả tại thành thị và vùng nông thôn, họ đã thành công trong việc hất cẳng Pháp năm 1962. Đa phần trong số 1.025.000 người "chân đen", cũng như 91.000 người "harki" (người Hồi giáo Algérie ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algérie năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó.

Tổng thống đầu tiên của Algérie, người lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ahmed Ben Bella, bị cựu đồng minh cũ và là bộ trưởng quốc phòng Houari Boumédiènne lật đổ năm 1965. Dưới thời Ben Bella chính phủ ngày càng đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và độc tài, và chiều hướng này tiếp tục kéo dài tới thời chính phủ Boumedienne; tuy vậy, Boumedienne tiếp tục dựa nhiều vào quân đội, giảm bớt vai trò của đảng cầm quyền duy nhất chỉ còn mang tính tượng trưng. Nông nghiệp được hợp tác hoá, và một phong trào công nghiệp hóa rộng rãi được triển khai. Các cơ sở khai thác dầu khí được tư nhân hóa giúp tăng tài sản quốc gia, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng nền kinh tế Algérie dần trở nên phụ thuộc vào dầu mỏ, khiến nó gặp khó khăn khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập kỷ 1980. Trong chính sách đối ngoại Algérie là một thành viên và lãnh đạo của phong trào các quốc gia "không liên kết". Sự tranh giành Tây Sahara với Maroc hầu như đã đưa hai nước tới bờ vực chiến tranh. Bất đồng chính trị ít được nhân nhượng và sự kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện truyền thông cũng như việc đặt các đảng chính trị không phải Phong trào Giải phóng Quốc gia ra ngoài vòng pháp luật được thể chế hóa theo hiến pháp hà khắc năm 1976. Boumédienne chết năm 1978, nhưng thời cầm quyền của người kế vị, Chadli Bendjedid, cũng không mang lại nhiều cải cách hơn. Nhà nước mang nặng tính quan liêu và tham nhũng tràn lan.

Hiện đại hóa đã mang lại những thay đổi lớn trong nhân khẩu Algérie. Các truyền thống làng xã trải qua những thay đổi lớn cùng với sự tăng lên của quá trình đô thị hoá, các ngành công nghiệp mới xuất hiện, nông nghiệp bị thu hẹp ai trò, và giáo dục, vốn không phát triển ở thời thuộc địa, đã được mở rộng ra khắp đất nước, nâng tỷ lệ biết chữ từ chưa tới 10% thành hơn 60%. Những cải thiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe gây ra sự tăng trưởng rất cao ở tỷ lệ sinh (7-8 trẻ trên mỗi phụ nữ) gây ra hai hậu quả: một dân số rất trẻ và sự khủng hoảng chỗ ở. Thế hệ mới đấu tranh để liên hệ với nỗi ám ảnh văn hóa những năm chiến tranh và hai phong trào phản kháng bắt đầu phát triển: những người cánh tả, gồm các phong trào của người Berber, và những người bảo vệ Hồi giáo. Cả hai đều chống lại sự cầm quyền độc đảng nhưng cũng xung đột với nhau cả trong các trường đại học và trên đường phố trong thập kỷ 1980. Những cuộc tuần hành đông đảo của hai phe trong mùa thu năm 1988 buộc Benjedid phải chấm dứt chế độ cầm quyền một đảng và cuộc bầu cử tự do được tuyên bố diễn ra năm 1991.

Tháng 12 năm 1991, Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo thắng lợi tại vòng một cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên của nước này. Quân đội sau đó đã hủy bỏ vòng hai, buộc tổng thống khi ấy là Bendjedid từ chức và cấm Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo. Những cuộc xung đột tiếp sau nhận chìm Algérie vào vòng bạo lực với cuộc Nội chiến Algérie. Hơn 100.000 người đã thiệt mạng, thường là trong những cuộc thảm sát dân thường vô có. Câu hỏi về người chịu trách nhiệm cho những cuộc thảm sát đó vẫn gây tranh cãi trong những nhà quan sát trong quốc hội; nhiều vụ bị gán cho các Nhóm vũ trang Hồi giáo. Sau năm 1998, cuộc chiến tranh gần tàn lụi và tới năm 2002 các nhóm du kích chính hoặc đã bị tiêu diệt hoặc đầu hàng đưa lại cơ hội cho một chương trình ân xá quốc gia, dù những cuộc xung đột lẻ tẻ vẫn diễn ra ở một số vùng. Các cuộc bầu cử được tiến hành lại năm 1995, và vào ngày 27 tháng 4 năm 1999, sau thời kỳ cầm quyền ngắn của một loạt tướng lĩnh quân đội, Abdelaziz Bouteflika, vị tổng thống hiện nay được bầu lên[19]. Vấn đề bản sắc và ngôn ngữ Berber ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt sau cuộc phản kháng Kabyle đông đảo năm 2001 và cuộc tẩy chay hầu như hoàn toàn cuộc tuyển cử tại Kabylie; chính phủ nhượng bộ và coi Tamazight (tiếng Berber) là ngôn ngữ quốc gia sử dụng trong các trường học.

Đa phần các lĩnh vực Algérie hiện đã phục hồi, phát triển trở thành một nền kinh tế đang nổi. Giá dầu mỏ và khí gas cao là nhân tố giúp chính phủ cải thiện cơ sở hạ tầng đất nước và đặc biệt cải thiện công nghiệp và nông nghiệp. Những khoản đầu tư nước ngoài vào Algérie đã gia tăng gần đây.